Hạ tầng số – Kinhtetieudung.com https://kinhtetieudung.com Cập nhật tin tức kinh tế tiêu dùng, phân tích xu hướng thị trường, đánh giá sản phẩm và dịch vụ Sat, 20 Sep 2025 05:26:45 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhtetieudung/2025/08/kinhtetieudung.svg Hạ tầng số – Kinhtetieudung.com https://kinhtetieudung.com 32 32 Chuyển đổi số đô thị: Tận dụng công nghệ để minh bạch hóa và tiết kiệm nguồn lực https://kinhtetieudung.com/chuyen-doi-so-do-thi-tan-dung-cong-nghe-de-minh-bach-hoa-va-tiet-kiem-nguon-luc/ Sat, 20 Sep 2025 05:26:40 +0000 https://kinhtetieudung.com/chuyen-doi-so-do-thi-tan-dung-cong-nghe-de-minh-bach-hoa-va-tiet-kiem-nguon-luc/

Trong giai đoạn 2025-2035, đô thị thông minh sẽ cần một hạ tầng số hiện đại và tinh vi để giúp dữ liệu công trở thành công cụ ra quyết định và vận hành đô thị một cách minh bạch, theo thời gian thực và tiết kiệm nguồn lực. Công nghệ blockchain đang ngày càng chứng minh vai trò quan trọng của mình trong việc kiến tạo đô thị vận hành bằng dữ liệu mở.

Đà Nẵng chuyển mình thành đô thị số từ những định hướng liên quan đến dữ liệu và nền tảng số. Ảnh: XUÂN SƠN
Đà Nẵng chuyển mình thành đô thị số từ những định hướng liên quan đến dữ liệu và nền tảng số. Ảnh: XUÂN SƠN

Công nghệ blockchain được xem là một hạ tầng mềm quan trọng cho đô thị thế hệ mới, bên cạnh các hạ tầng cứng như điện, nước, giao thông. Theo ông Trần Huyền Dinh, Chủ nhiệm Ủy ban Ứng dụng Fintech, Hiệp hội Blockchain Việt Nam, giá trị cốt lõi của blockchain nằm ở khả năng lập trình hóa quy trình, phi vật chất hóa dữ liệu và phân tán trách nhiệm vận hành theo một chuẩn mực kiểm chứng công khai.

Ký kết 19 biên bản ghi nhớ hợp tác tại SURF 2025
Ký kết 19 biên bản ghi nhớ hợp tác tại SURF 2025

Khi dữ liệu công được ghi nhận trên một blockchain mở, mọi thao tác chỉnh sửa, can thiệp hay sai lệch đều bị phát hiện ngay lập tức. Điều này giúp làm trong sạch hóa vận hành công và giảm thiểu tiêu cực. Nhiều doanh nghiệp công nghệ đã ứng dụng blockchain tại các địa phương, từ sàn giao dịch tài sản số đến nền tảng thanh toán DeFi và hệ thống blockchain nội bộ hỗ trợ truy xuất dữ liệu kim hoàn, tài sản đô thị và tín nhiệm tài chính công.

Những startup ứng dụng công nghệ số, số hóa dữ liệu góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ xây dựng đô thị thông minh. Ảnh: PHAN VINH
Những startup ứng dụng công nghệ số, số hóa dữ liệu góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ xây dựng đô thị thông minh. Ảnh: PHAN VINH

Để xây dựng đô thị thông minh, việc thiết kế lại cấu trúc dữ liệu nền là quan trọng. Các thành phố như Singapore, Hàn Quốc, Thụy Sĩ và Hồng Kông đã bắt đầu quá trình chuyển đổi số bằng cách chuẩn hóa dữ liệu công, lựa chọn công nghệ phù hợp và tạo sandbox để kiểm nghiệm thực tế từng ứng dụng trước khi nhân rộng.

Công nghệ blockchain giúp khôi phục niềm tin giữa người dân và chính quyền thông qua khả năng xác minh công khai mọi quyết định của Nhà nước. Hệ thống sổ cái phân tán (DLT) tạo ra bản ghi chính thức và chống lại việc sửa lại quá khứ, giúp tăng cường minh bạch trong quản trị đô thị. Một thành phố minh bạch không phải là nơi không có lỗi, mà là nơi mọi quyết định đúng hay sai đều để lại dấu vết và có thể được kiểm tra, phản biện, đánh giá bằng dữ liệu thật.

Hiện tại, một số công ty đang xây dựng các bộ công cụ để hỗ trợ chính quyền địa phương triển khai hệ thống truy xuất công khai trên dữ liệu ngân sách, giấy phép xây dựng và đất công thông qua giao diện trực tuyến. Với sự phát triển và ứng dụng công nghệ blockchain, đô thị thông minh sẽ ngày càng trở thành hiện thực, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân và tạo ra một môi trường sống minh bạch, công bằng và hiệu quả.

Hạ tầng số tinh vi và công nghệ blockchain sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo đô thị thông minh. Việc ứng dụng blockchain trong quản trị đô thị sẽ giúp tăng cường minh bạch, giảm thiểu tiêu cực và nâng cao niềm tin giữa người dân và chính quyền. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng đô thị thông minh và tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn cho người dân.

]]>
Quảng Ngãi bứt phá với hạ tầng số và dịch vụ công trực tuyến https://kinhtetieudung.com/quang-ngai-but-pha-voi-ha-tang-so-va-dich-vu-cong-truc-tuyen/ Mon, 01 Sep 2025 07:14:27 +0000 https://kinhtetieudung.com/quang-ngai-but-pha-voi-ha-tang-so-va-dich-vu-cong-truc-tuyen/

Trong bối cảnh hiện nay, việc đầu tư và hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là ưu tiên hàng đầu giúp các địa phương bứt phá và phát triển nhanh, bền vững. Tỉnh Quảng Ngãi đã và đang đẩy mạnh việc hoàn thiện hạ tầng số nhằm mang lại hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc phát triển hạ tầng số. Hiện nay, 100% thôn, làng trên địa bàn tỉnh đã được phủ sóng di động 3G, 4G. Mạng 5G đã được triển khai tại các khu đô thị, công nghiệp với 58 trạm BTS. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng cáp quang đạt 73%, trong khi 83% dân số trưởng thành sở hữu điện thoại thông minh. Những con số này cho thấy sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của hạ tầng số tại tỉnh Quảng Ngãi.

Trung tâm dữ liệu tỉnh Quảng Ngãi được đầu tư với dung lượng lưu trữ lên đến 170 TB, vận hành 24 hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, kết nối gần 60 ứng dụng. Hệ thống quản lý văn bản điện tử đã được triển khai tới 1.523 cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh. Tỷ lệ sử dụng văn bản điện tử ở cấp sở, ngành đạt hơn 99%. Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính vận hành ổn định, cung cấp 732 dịch vụ công trực tuyến toàn trình, số hóa hồ sơ và kết quả đạt trên 99% ở cấp tỉnh. Điều này đã giúp tỉnh Quảng Ngãi đạt được những kết quả đáng kể trong việc chuyển đổi số và cải thiện môi trường kinh doanh.

Bên cạnh đó, công tác đảm bảo an toàn, an ninh mạng cũng được tỉnh Quảng Ngãi chú trọng. Các hệ thống SOC, phòng chống mã độc đã được triển khai đồng bộ, giúp kịp thời phát hiện và xử lý hơn 4.500 cảnh báo nguy cơ mất an toàn thông tin. Việc đảm bảo an toàn thông tin đã trở thành một phần quan trọng trong quá trình chuyển đổi số của tỉnh Quảng Ngãi.

Những nỗ lực của tỉnh Quảng Ngãi trong việc hoàn thiện hạ tầng số và đẩy mạnh chuyển đổi số đã góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững của địa phương. Với những kết quả tích cực đã đạt được, tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện hạ tầng số và triển khai các giải pháp để nâng cao hiệu quả của quá trình chuyển đổi số.

]]>
Chuyển đổi số khu vực công: Thiếu hạ tầng và nhân lực công nghệ cao https://kinhtetieudung.com/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-thieu-ha-tang-va-nhan-luc-cong-nghe-cao/ Fri, 29 Aug 2025 21:59:27 +0000 https://kinhtetieudung.com/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-thieu-ha-tang-va-nhan-luc-cong-nghe-cao/

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức và rào cản. Theo ông Nguyễn Hữu Thái Hòa, Phó Viện trưởng Viện Trí Việt IVM – VUSTA, Chủ tịch VDIC, Trung tâm Thông tin Truyền thông số Việt Nam của Hội Truyền Thông Số, chuyển đổi số nếu chỉ được nhìn nhận như một nhiệm vụ công nghệ đơn thuần mà không gắn với cải cách thể chế, quản trị và đo lường hiệu quả sử dụng nguồn lực công thì rất khó tạo ra đột phá thực chất.

Một trong những rào cản lớn nhất là hạ tầng công nghệ tại các cơ quan Nhà nước còn rất lạc hậu, thiếu đồng bộ và khó tích hợp. Nhiều nơi vẫn sử dụng hệ thống lưu trữ dữ liệu rời rạc, không tương thích, gây cản trở việc kết nối, chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành, địa phương. Ông Hòa cũng chỉ ra rằng không có một kiến trúc công nghệ thống nhất, việc kết nối dữ liệu dân cư, thuế, y tế, tài chính… trở thành bài toán nan giải, dù các hệ thống đó đã được đầu tư lớn trong nhiều năm.

Tổng mức đầu tư cho các chương trình chuyển đổi số khu vực công bao gồm hạ tầng dữ liệu dân cư, căn cước công dân gắn chip, Cổng dịch vụ công quốc gia, nền tảng số ngành dọc… đã vượt hàng nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự phân bổ ngân sách thiếu đồng đều giữa trung ương và địa phương, khiến các cấp cơ sở khó có khả năng triển khai đồng bộ.

Ông Hòa cũng nhấn mạnh rằng chuyển đổi số khu vực công còn đối mặt với bài toán nhân lực công nghệ cao. Các chuyên gia giỏi về trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, phân tích dữ liệu thường lựa chọn khu vực tư nhân hoặc các công ty công nghệ lớn do chính sách lương thưởng vượt trội. Trong khi đó, cán bộ, công chức tại nhiều cơ quan hành chính, đặc biệt ở tuyến huyện, xã thiếu kỹ năng số, thiếu cả động lực và tâm thế thích nghi với công nghệ mới.

Một thách thức khác là nguy cơ tấn công mạng ngày càng lớn khi dữ liệu nhạy cảm như thông tin công dân, tài chính, y tế… được số hóa và lưu trữ tập trung, nhưng lại thiếu lớp bảo vệ pháp lý và công nghệ tương xứng. Hệ thống pháp luật về bảo mật dữ liệu, an toàn thông tin, lưu trữ số… vẫn chưa bắt kịp tốc độ phát triển của công nghệ, gây ra khoảng trống trong việc xử lý sự cố và đảm bảo niềm tin số cho người dân.

Để tháo gỡ những nút thắt hiện nay, ông Hòa nêu 4 đề xuất: tăng ngân sách đầu tư hạ tầng số, phát triển nguồn nhân lực số cho khu vực công, khuyến khích doanh nghiệp công nghệ tham gia cung cấp giải pháp số cho khu vực công và xây dựng trung tâm giám sát an ninh mạng quốc gia, đồng thời ban hành khung pháp lý chặt chẽ về bảo mật dữ liệu, quyền riêng tư và lưu trữ số. Vietnam.vn đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Hữu Thái Hòa để tìm hiểu thêm về vấn đề này.

]]>
Bộ Khoa học và Công nghệ đặt mục tiêu chuyển đổi số trong quản lý nhà nước https://kinhtetieudung.com/bo-khoa-hoc-va-cong-nghe-dat-muc-tieu-chuyen-doi-so-trong-quan-ly-nha-nuoc/ Fri, 29 Aug 2025 09:12:19 +0000 https://kinhtetieudung.com/bo-khoa-hoc-va-cong-nghe-dat-muc-tieu-chuyen-doi-so-trong-quan-ly-nha-nuoc/

Trung tâm Công nghệ thông tin của Bộ Khoa học và Công nghệ đang đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng và phát triển hạ tầng số, dữ liệu số, và công nghệ số. Với vị trí là hạt nhân về công nghệ thông tin, chuyển đổi số và an toàn thông tin mạng, Trung tâm đã tích cực thực hiện các nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn 2023-2024.

Cấp ủy Chi bộ Trung tâm Công nghệ thông tin nhiệm kỳ 2025 - 2030. Ảnh: TTTT
Cấp ủy Chi bộ Trung tâm Công nghệ thông tin nhiệm kỳ 2025 – 2030. Ảnh: TTTT

Trong giai đoạn này, Trung tâm đã duy trì hoạt động ổn định của hệ thống chính phủ điện tử của Bộ, với tỷ lệ văn bản ký số đạt 94,57% vào năm 2023. Hệ thống này cũng tiếp nhận và xử lý hơn 146.000 văn bản đến và hơn 130.000 công việc trong năm 2024. Bên cạnh đó, Trung tâm đã triển khai mô hình bảo vệ bốn lớp để đảm bảo năng lực phòng thủ số trước các nguy cơ tấn công mạng.

Không chỉ tập trung vào nhiệm vụ kỹ thuật, Trung tâm còn đóng vai trò chiến lược trong truyền thông chính sách số. Trung tâm đã đăng tải hơn 12.000 tin bài và sản xuất gần 400 sản phẩm đa phương tiện mỗi năm trên Cổng thông tin điện tử của Bộ. Hệ thống thông tin này đã truyền tải các chủ trương về chuyển đổi số, an toàn thông tin, dữ liệu số và 5G đến người dân, doanh nghiệp và địa phương.

Nhiệm kỳ 2025-2030, Chi bộ Trung tâm đặt mục tiêu trở thành đơn vị hạt nhân về hạ tầng số, dữ liệu số và công nghệ số, phục vụ công tác quản lý nhà nước và sự nghiệp khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia. Để đạt mục tiêu này, Trung tâm sẽ hoàn thiện, nâng cấp các nền tảng công nghệ phục vụ điều hành, cải cách hành chính; phát triển hệ thống thông tin quản lý tích hợp, kết nối ba cấp chính quyền; phát triển dịch vụ công trực tuyến mức độ cao với tỷ lệ dịch vụ toàn trình đạt 100%.

Cụ thể, Chi bộ đề ra các mục tiêu: 100% văn bản được ký số; 95% văn bản trao đổi qua hệ thống điều hành điện tử; 100% cán bộ chuyên môn được đào tạo kỹ năng số hằng năm. Trung tâm cũng sẽ phát triển theo 5 trụ cột, bao gồm xây dựng nền tảng quản trị số của Bộ, quy hoạch và phát triển hạ tầng số theo mô hình cloud-first, phát triển hệ thống giải quyết thủ tục hành chính tích hợp đa kênh, phát triển kho dữ liệu số liên ngành và xây dựng Trung tâm điều hành an toàn, an ninh mạng.

Phát biểu tại Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2030, tổ chức hôm 10/7 tại Hà Nội, ông Đỗ Công Anh, Bí thư Chi bộ, Giám đốc Trung tâm cho biết Bộ Khoa học và Công nghệ luôn thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính, hiện đại hóa phương thức quản lý nhà nước. Qua đó, góp phần xây dựng chính phủ điện tử và hỗ trợ các hoạt động đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Trang chủ Bộ Khoa học và Công nghệ

Thông tin về Chi bộ Trung tâm Công nghệ thông tin

Chi tiết các mục tiêu của Chi bộ Trung tâm Công nghệ thông tin nhiệm kỳ 2025-2030

]]>
Lâm Đồng tiên phong chuyển đổi số toàn diện với Tập đoàn Viettel https://kinhtetieudung.com/lam-dong-tien-phong-chuyen-doi-so-toan-dien-voi-tap-doan-viettel/ Wed, 23 Jul 2025 02:48:49 +0000 https://kinhtetieudung.com/lam-dong-tien-phong-chuyen-doi-so-toan-dien-voi-tap-doan-viettel/

Lâm Đồng là tỉnh tiên phong trên cả nước thực hiện chương trình chuyển đổi số toàn diện với Tập đoàn Viettel ngay sau quá trình sáp nhập. Sự kiện này thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của chính quyền tỉnh trong việc ổn định tổ chức và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế – xã hội. Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, ông Hồ Văn Mười, cho biết rằng mặc dù tỉnh đã triển khai một số hạng mục về chuyển đổi số, vẫn còn nhiều việc cần tiếp tục thực hiện và đẩy mạnh, đặc biệt là việc đồng bộ hóa dữ liệu và nền tảng từ các tỉnh đã sáp nhập.

Trong buổi làm việc với Tập đoàn Viettel, UBND tỉnh Lâm Đồng đã đề xuất hỗ trợ để đẩy mạnh chuyển đổi số trên các lĩnh vực chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Tỉnh mong muốn xây dựng hạ tầng số đồng bộ, cơ sở dữ liệu dùng chung và các nền tảng tích hợp để nâng cao hiệu quả quản trị, phục vụ người dân và doanh nghiệp thông qua ứng dụng công nghệ thông tin. Cụ thể, Lâm Đồng đề xuất Viettel hỗ trợ phát triển hạ tầng số và kết nối 4G/5G trên toàn tỉnh, triển khai Hệ thống một cửa điện tử, ứng dụng chữ ký số, kết nối và đồng bộ dữ liệu từ các tỉnh cũ, cũng như triển khai hệ thống báo cáo phân tích dữ liệu và cảnh báo sớm phục vụ công tác điều hành của UBND tỉnh.

Đồng chí Phó TGĐ Tập đoàn Cao Anh Sơn chia sẻ về những nhóm việc và lộ trình cụ thẻ của các chương trình hành động số cho tỉnh
Đồng chí Phó TGĐ Tập đoàn Cao Anh Sơn chia sẻ về những nhóm việc và lộ trình cụ thẻ của các chương trình hành động số cho tỉnh

Ngoài ra, tỉnh Lâm Đồng cũng bày tỏ mong muốn Viettel xem xét và lựa chọn Lâm Đồng làm địa điểm triển khai các dự án nhà máy công nghệ cao, như nhà máy bán dẫn, trung tâm dữ liệu. Chủ tịch – Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel, ông Tào Đức Thắng, đã có buổi trao đổi trực tiếp với Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Lâm Đồng và Chủ tịch UBND tỉnh Hồ Văn Mười để lắng nghe các đề xuất của tỉnh. Ông Thắng cho biết rằng theo kinh nghiệm của Viettel, có 6 mục tiêu trọng yếu cần phối hợp thực hiện sớm trong quá trình chuyển đổi số, bao gồm hoàn thiện thể chế, thu thập và số hóa dữ liệu, xây dựng và nâng cấp hạ tầng, xây dựng các bài toán ứng dụng, bảo đảm an ninh an toàn thông tin và bảo đảm nguồn lực.

Mùa sen nở rộ thu hút du khách đến với vùng non nước hùng vĩ Ninh Bình
Mùa sen nở rộ thu hút du khách đến với vùng non nước hùng vĩ Ninh Bình

Tỉnh Lâm Đồng được thành lập trên cơ sở sáp nhập ba tỉnh cũ gồm Lâm Đồng, Đắk Nông và Bình Thuận. Sau sáp nhập, tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước với 24.233 km², dân số khoảng 3,87 triệu người và 124 đơn vị hành chính cấp xã. Năm 2024, GRDP của tỉnh đạt 319.887 tỷ đồng, tăng trưởng 4,02% so với năm trước, xếp hạng 8/34 toàn quốc. Việc sáp nhập đã mang lại cho Lâm Đồng một tầm vóc phát triển mới với nền kinh tế đa dạng và không gian rộng mở để triển khai chuyển đổi số, đặc biệt là trong các lĩnh vực kinh tế trọng điểm như nông nghiệp và du lịch.

Thác K50 mộng mơ mùa hoa ngô đồng giữa đại ngàn Kon Chư Răng
Thác K50 mộng mơ mùa hoa ngô đồng giữa đại ngàn Kon Chư Răng

Tuy nhiên, Lâm Đồng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức do quy mô địa bàn rộng, địa hình chia cắt, sự đa dạng về dân tộc… Đây là những yếu tố đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc phổ cập công nghệ và triển khai các giải pháp chuyển đổi số mang tính đặc thù, phù hợp với thực tiễn địa phương. Với sự hỗ trợ từ Tập đoàn Viettel, tỉnh Lâm Đồng hy vọng sẽ sớm đạt được mục tiêu chuyển đổi số toàn diện, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh trong thời gian tới.

]]>
Việt Nam hướng đến 30 tỷ USD từ thương mại điện tử vào năm 2030 https://kinhtetieudung.com/viet-nam-huong-den-30-ty-usd-tu-thuong-mai-dien-tu-vao-nam-2030/ Mon, 21 Jul 2025 09:50:25 +0000 https://kinhtetieudung.com/viet-nam-huong-den-30-ty-usd-tu-thuong-mai-dien-tu-vao-nam-2030/

Thương mại điện tử tại Việt Nam đang trải qua một giai đoạn phát triển ấn tượng, với tốc độ tăng trưởng đáng kể trong khoảng thời gian 2020-2025. Dự kiến, quy mô của lĩnh vực này sẽ đạt 30 tỷ USD vào năm 2025. Trên cơ sở nền tảng vững chắc này, mục tiêu đặt ra cho thương mại điện tử Việt Nam đến năm 2030 là đạt quy mô 30 tỷ USD, tương đương khoảng 15% tổng mức bán lẻ hàng hóa.

Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn TMĐT xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển đến năm 2030. Đồ họa: TT
Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn TMĐT xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển đến năm 2030. Đồ họa: TT

Trong giai đoạn 2021-2025, thương mại điện tử tại Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ, một phần nhờ vào việc đầu tư có kế hoạch về hạ tầng và khung pháp lý. Bộ Công Thương đã chủ động trong việc xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, đặc biệt là các nghị định liên quan đến thương mại điện tử, ngoại thương, thị trường và các mô hình kinh doanh số.

Cùng với đó, việc xây dựng Luật Thương mại điện tử và nghiên cứu sửa đổi Luật Thương mại đã đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đồng thời thúc đẩy tính minh bạch, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên không gian số. Song song với việc hoàn thiện thể chế, hạ tầng thương mại và logistics cũng được chú trọng đầu tư. Tính đến năm 2023, Việt Nam đã có hơn 30.000 kho bãi và 6 trung tâm logistics cấp quốc gia.

Nhờ những nỗ lực này, chỉ số hiệu quả logistics của Việt Nam đã tăng 10 bậc, từ vị trí 53 lên vị trí 43. Hạ tầng số phục vụ thương mại điện tử cũng được đẩy mạnh. Bộ Công Thương hiện cung cấp 267 dịch vụ công trực tuyến, trong đó 100% thủ tục hành chính được thực hiện ở mức độ 3 và 4 trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, giúp doanh nghiệp thương mại điện tử tiết kiệm thời gian và chi phí vận hành.

Một yếu tố then chốt góp phần mở rộng không gian thị trường cho hàng hóa và dịch vụ thương mại điện tử chính là việc Việt Nam tích cực ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA). Trong giai đoạn 2020-2025, Việt Nam đã ký thêm 4 FTA, nâng tổng số lên 17 hiệp định với 65 đối tác toàn cầu.

Tuy nhiên, sự phát triển nhanh của thương mại điện tử cũng đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý thị trường và bảo vệ người tiêu dùng. Trong giai đoạn 2021-2025, gần 290.000 vụ việc đã được kiểm tra, trong đó gần 200.000 vụ vi phạm đã bị cơ quan chức năng xử lý.

Để thực hiện các mục tiêu đến năm 2030, Bộ Công Thương tập trung vào việc hoàn thiện Luật Thương mại điện tử; tiếp tục ban hành các chính sách liên quan đến quản lý dữ liệu, bảo vệ người tiêu dùng số, logistics và công nghệ thanh toán. Bên cạnh đó, mở rộng hệ thống logistics phục vụ thương mại điện tử, nâng cao năng lực kho vận, giao hàng nhanh và hiệu quả.

Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn giao dịch xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển. Với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chính sách, hạ tầng và nguồn lực, thương mại điện tử được kỳ vọng sẽ đóng vai trò trung tâm trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia, góp phần đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế số hàng đầu khu vực.

]]>
Nâng cao liên kết doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh https://kinhtetieudung.com/nang-cao-lien-ket-doanh-nghiep-de-tang-suc-canh-tranh/ Fri, 18 Jul 2025 05:21:54 +0000 https://kinhtetieudung.com/nang-cao-lien-ket-doanh-nghiep-de-tang-suc-canh-tranh/

Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, liên kết doanh nghiệp đang trở thành một yếu tố quan trọng giúp các doanh nghiệp mở rộng và đa dạng hóa thị trường, kết nối và hiện thực hóa các mô hình kinh doanh mới. Thông qua việc liên kết, các doanh nghiệp có thể chia sẻ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, giảm thiểu rủi ro và ứng phó hiệu quả với các diễn biến bất lợi, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh.

Đánh giá của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2025 (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện)
Đánh giá của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2025 (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện)

Các hình thức liên kết doanh nghiệp hiện nay rất đa dạng, bao gồm hợp tác doanh nghiệp cùng ngành, hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, đầu tư, góp vốn, mua bán, sáp nhập và hình thành các nhóm công ty, ký kết hợp tác chiến lược. Đặc biệt, trong mối liên kết với doanh nghiệp nước ngoài, số lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia có xu hướng tăng. Liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển thông qua chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước.

Đề xuất, kiến nghị, mong muốn của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện).
Đề xuất, kiến nghị, mong muốn của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện).

Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam vẫn thiếu sự liên kết chặt chẽ có tính hệ thống và bài bản. TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, cho biết rằng mặc dù Việt Nam đã có một số doanh nghiệp lớn tham gia cạnh tranh quốc tế và tham gia một số khâu của chuỗi giá trị sản xuất khu vực và thế giới, nhưng mạng lưới doanh nghiệp liên kết vẫn bị giới hạn trong phạm vi số ít các doanh nghiệp cùng hệ thống sở hữu.

Đồng thời, còn thiếu các doanh nghiệp lớn, cả doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân, có khả năng kết nối, làm chủ chuỗi giá trị và dẫn dắt hệ sinh thái doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước. Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoạt động đơn lẻ và chưa chủ động tham gia vào các quan hệ đối tác, liên kết.

Trong giai đoạn kinh tế khó khăn, chuỗi cung ứng đứt gãy, các doanh nghiệp trong nước không tạo được vòng tuần hoàn chặt chẽ để cùng liên kết, cung ứng, chia sẻ và tối đa hóa đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp FDI còn hạn chế.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, bao gồm năng lực nội tại của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết doanh nghiệp chưa đủ. Do đó, cần có các giải pháp đồng bộ để thúc đẩy liên kết doanh nghiệp, bao gồm việc tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật, môi trường kinh doanh, xây dựng và phát triển hạ tầng số hiện đại, và chính sách ưu đãi vượt trội về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng.

Các chuyên gia cũng kiến nghị việc cần thiết phải điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng nâng cao điều kiện ràng buộc về tỷ lệ nội địa hóa và tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhà nước cần đầu tư và có cơ chế ưu đãi đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chuyên biệt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Cần thúc đẩy hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam quy mô lớn đóng vai trò liên kết, quy tụ, dẫn dắt doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước ở một số ngành, lĩnh vực có thể đem lại vị thế quan trọng của quốc gia trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.

]]>